Kẹt Bắc Mỹ Thuận khá lâu, về đến Cần Thơ trời đã xế dài. Tôi kêu xe lôi vội vả xuống bén tàu, may kịp chuyến đò chót về Trà Ôn.
Đò đậu ken khít, trong mui nghẹt người, khói dầu khói thuốc bao phủ, Tôi len lỏi mướt mồ hôi mới tìm được chỗ ngồi, vừa lau mặt vừa nhìn cảnh vật lờ mờ xung quanh.
Hành khách đã đông, hàng hóa lại nhiều, tiếng máy xình xịch, tiếng trẻ khóc thét hòa lẫn với tiếng oang oang của mấy bà thành một âm thanh hỗn độn. Tôi thu mình chịu trận khá lâu, đò mới tách bến.
Chiếc đò tuy nhỏ, nhờ được dáng thon máy mạnh bon bon rẽ nước ra khơi. Dòng sông Hậu mênh mông gió lộng xua khói mù, ai nấy thở ra khoan khoái.
Tôi nhìn ra cửa sổ, đây cồn Tròn cây cối xanh ùm, kia cồn Công nơi địch núp hồi tết Mậu Thân bắn rẽ ra thuyền ra đò, báo hại bao người vô tội bị chết bị thương oan uổng. Xa hơn là cù lao Mây một trong những cù lao to của giòng sông Hậu. Còn nhớ thửa nhỏ, thỉnh thoảng chúng tôi chèo tam bản ra mấy cồn non ở đuôi của lao này, chia làm hai tốp, dùng sình non làm bom, lựu đạn, lập thành chiến tuyến bên Nhật bên Tàu cũng phục kích, cũng tấn công, cũng xung phong cũng xáp lá cà dữ tợn.
Sát phạt nhau cho đến đói lả mệt nhoài, mới đi hái đọt rau chiết bẻ trái bần non ăn với mắm sống cơm nguội.
Thời thơ dại như mới ngày nào, phải chăng đó là điềm báo trước mà giờ đây chúng tôi kẻ ở bên này người bên kia không biết còn sót được mấy ngoe. Mình thì tóc đã điểm sương biết bao giờ lại được cùng nhau chia miếng mắm sống, sẻ trái bần xanh như thuở nọ.
Một hành khách đến bên hồi nào, vỗ vai làm tôi giật mình quay lại. Y cưởi niềm nở:
- Anh Tám mới về hả? Còn nhớ em không?
Tôi ngơ ngác lắc đầu. Y tự giới thiệu:
- Dũng đây mà! Dũng em ba Hùng, anh quên rồi sao?
- Trời đất! Chú thay đổi nhiều quá, làm sao tôi nhận cho ra. Sao mà ốm dữ vậy, gia đình hiện nay ở đâu?
Dũng ngồi sẽ bên tôi, đáp:
- Vợ con em vẫn ở chỗ cũ, riêng em thì nay đây mai đó không về nhà được anh ơi!
- Ủa sao kỳ vậy? Nghe nói miệt chú lóng này yên mà?
- Yên thì yên lâu rồi, người ta hồi cư rần rần, bạc tiền vô như nước. Riêng em thất tha thất thiểu, chịu đói chịu khát mà không biết làm sao hơn!
- Nắng bề nào che bề nấy như thiên hạ hơi đâu mà ngại chứ?
Dũng thắp giọng kể lể:
- Đâu có phải anh, tiếng tăm của em đã nổi như cồn, bên này bên kia đều biết danh biết mặt, có ai thèm đếm xỉa tới, em cứ phây phây muốn đi đâu thì đi, miễn đừng về nhà thì thôi vì nếu về nhà thì vợ con liền phát điên, chúng chạy bán mạng khắp đồng, không nữa cũng phóng xuống rạch xuống ao, lăn thôi trắng dờ con mắt.
Thấy tôi trố mắt ngạc nhiên, Dũng tiếp:
- Chắc anh cũng biết mấy năm về trước em còn được bên trong tín nhiệm, họ giao cho em giữ tù kiêm luôn ban ám sát. Số người bị em thủ tiêu không nhớ nổi, thậm chí gặp cơn bố ráp, dẫn họ chạy lòng thòng bận bịu mất công, em tự động thanh toán bớt cho gọn rồi về báo cáo qua quít thế nào cũng xong.
- Tưởng chết là hết nào ngờ hồn oan của họ vẫn còn vất vít. Ban sơ lúc ngủ em mơ máng thấy kẻ xách đầu người ôm ruột bu em đòi mạng, vía em nạt nộ xua đuổi họ không ngán xông tới làm già, mỗi đêm mấy chập như vậy.
- Thôi rồi không đợi tới ngủ, hễ em quá mệt mỏi vừa nhắm mắt họ đã bu lại tấn công làm mình mất ngủ mất ăn, càng ngày càng ốm còm ốm cỏi.
- Em gây nên tội chịu khổn đã đành, tội nghiệp cho vợ con thỉnh thoảng nhớ em men về nhà, thấy mặt chưa kịp mừng chúng đã bị ma quỷ nhập vô, phát điên lướt bụi băng đồng, chạy cho đến xỉu mới được chòm xóm khiêng về hoặc nhào xuống nước lặn gần hụt hơi, mới được bà con vớt phụ, chúng đâu có tội tình cho cam.
Em quýnh lên, chạy kiếm mấy ông Thầy pháp. Ông trả lời sổ bùa khấn ấn đã đốt từ lâu, còn gì mà linh. Ổng nói Tổ tướng bấy năm không thờ, lấy đâu mà ứng!
Họ từ chối cũng phải, trước kia chính mình đã cấm họ hành nghề mê tín dị đoan, giờ còn trách được vào đâu.
Có người chỉ ông Lục Ô.Răng vùng Chông Nô, đậu là một ông Sái Miên đạo đức cao siêu, phép thuật nhiệm mầu. Em thiết tha cầu khẩn, ông mới ban cho mấy sợi tom căn dặn phải lo tích đức tu nhơn, mới mong thoát khổ.
Anh nghĩ, mình ăn thịt chó, thịt trâu như hạm, chay lạt gì được mà tu, thêm cũng chẳng biết đức là cái chi chi mà chứa.
Bởi với cả nhà đeo niệt đeo tom ăn trớt, vợ con vẫn phát điên mỗi khi em về thăm nhà. Tội nghiệp nhứt là đứa con út chưa đầy hai tuổi. Nó mới biết đi mà hễ thấy em vừa ló tới sân thay vì lẫm dẫm ra mừng lại bon bon chạy thẳng ra hồ, phóng tỏm xuống nước, mẹ nó anh chị nó túa chạy hướng nào mặc kệ, em nhảy xuống hồ lo vớt đứa con cưng.
Nghĩ cũng lạ, đứa bé tí xíu không biết chúng cốt gì mình trơn như lươn, sức mạnh như rái. Em phải ạch dụi khá lâu mới ôm được nó lên bờ, xốc nó ói ra hàng tô nước đục.
Vợ con khóc than, chòm xóm khuyên nhủ em đành dứt áo ra đi, để cho gia đình đỡ khổ.
Từ đó, hôm ghé nhà này mấy hôm lại vào nhà khác , anh em thương hại không nỡ đuổi xua. Kẻ mời bữa cơm, người cho bánh trái. Khổ nhứt là ban đêm, nằm đâu cũng bị lũ quỷ nó hiện về, đôi khi chúng còn lôi luôn chủ nhà đòi mạng, bắt buộc em phải ngủ bụi ngủ bờ, mặc cho gió mưa muỗi mòng, đỉa vắt.
Ba năm dằng dẵng, thân em như thân con vật vô chủ, ngại ngùng miếng cơm thương hại của xóm làng, ngày làm vắng, đêm gò hoang, kéo lê cuộc đời vô định. Nhiều lần em treo vòng thắt cổ, nếu không vòng đứt thì cũng gặp người bất chợt khuyên can. Nhờ vậy mới còn sống sót cho đến ngày nay. May gặp anh đây, thổ lộ nãy giờ lòng em cũng được phần nào nhẹ nhõm.
Tôi móc thuốc mời Dũng, rồi ân cần khuyên:
- Theo như lời chú thì đó là tiền oan nghiệp chướng nó theo báo mình. Mình nên ăn hiền ở lành, cố gây âm đức để trả cho xong chớ trốn đi đâu cho khỏi.
Dũng gượng cười đáp:
- Anh nói y như ông Sư già trong chùa em qui y. Anh ngạc nhiên hả, mà ngạc nhiên cũng phải, mầy đời quỉ sống như em mà chịu lạy Phật ăn chay?
“Vạn pháp do tâm sanh”, em bắt chước lời nói của vị Sư già lòe anh chút chơi, chớ có biết cái chi là tâm là pháp.
Chỉ biết một hôm, cách nay trút năm gì đó, em lọt trong trận bố lớn, vòng vây càng thắt, phi pháo càng nhiều, em gặp một tốp đàn bà trẻ thơ, đang quýnh quáng như bầy gà con mất mẹ.
Tội nghiệp quá em trấn tỉnh tinh thần mọi người rồi lắng chiều đạn bom, hướng dẫn họ thoát khỏi vòng vây vào chùa trú ẩn.
Ăn xong ba hột cơm, ỷ có mấy Thầy bảo vệ, em tìm một góc kín đáo, đánh một giấc tới khuya.
Chừng nghe hồi chuông công phu mới sực tỉnh giấc, còn nằm mơ màng nửa thức nửa ngủ thì bọn quỷ bọn ma ôm ruột xách đầu lại xuất hiện.
Lạ kia, sao chúng chẳng hung hăng đòi mạng như thường lệ mà dường như bận thả hồn theo tiếng chuông ngân hay lắng nghe giọng trầm đầm của chư Sư tụng niệm?
Em mừng thầm đánh luôn một giấc tới sáng.
Trận bố ký đó khá lớn, đã ba đêm ngày mà bom đạn vẫn còn, đồng bào kéo tới chùa càng bữa càng đông. Lính vào lục soát rần rần em cũng mặc, trực thăng bắn rốc kết xung quanh ầm ầm em cũng thây: đã từng thọc cổ vào vòng như em thì việc chết sống nào có xá chi, chỉ biết lợi dụng lúc quỉ ma quên đòi mạng mà ngủ li bì, ngủ đến quên ăn quên uống.
Chẳng lẽ nằm vạ luôn tại chùa, nên sau vụ bố em lại lếch thếch ra đi, rồi lại ngày vất vưởng thiếu ăn, đêm bị quỉ ma quấy rầy thiếu ngủ.
Nhớ vợ con đứt ruột mà chỉ dám từ xa nhìn về mái lá thân yêu, hay núp trong lùm đau xót ngắm cảnh vợ con lam lũ, bắt ốc, hái rau ngoài ruộng.
Thình thoảng lại có dịp ngủ nhờ tại chùa một đêm thì lạ quá, lại được một đêm quỷ ma mê chuông mõ kinh kệ quên quấy rầy, lần nào cũng như lần nào, làm em sanh nghi hay là Sự cụ có tài phép lạ gì chăng?
Em mới kể hết đầu đuôi, rồi xin Sư cụ ban phép trừ ma ếm quỷ. Ngài cười đáp:
- Sư chỉ biết ăn chay niệm Phật, sớm chiều chuông mõ kệ kinh, chớ có biết phép tắc gì đâu!
- Theo lời thí chủ vừa kể thì oan hồn có lẽ thích cảnh chủa chiền, hay là thí chủ qui y Tam Bảo thử xem, may ra có khỏi.
Em mừng rỡ xin thọ pháp qui y vào hôm rằm sau đó.
- Anh cũng biết, hễ thọ tam qui thì phải gìn ngũ giới. Giới nào em không ngán, chỉ ngán giới cấm sát sanh. Đạp con muỗi giết con kiến cũng phạm, thấy con chim ngon trên cành ước có cây súng nã một phát cũng sai. Em ẩu tả quen nết quen đời, cố hết sức cũng cứ nhớ sau quên trước.
- Em tu ba-sồn ba sực sơ sài như vậy, mà đỡ nhiều lắm nghen anh. Bây giờ lâu lâu về nhà, vợ con không còn điên liên như chầu xưa, em hủ hỉ với chúng được một vài giờ hễ chớm thấy một vài cử chỉ bất thường là mau tay mau chơn xách áo dông liền, chẳng đợi những cảnh đáng tiếc xảy ra như trước và đêm nào em ngủ tại chùa thì ít thấy quỷ ma, lỡ có thấy chúng cũng hiền khô, chớ không hành hung đòi mạng như ngủ nơi khác.
- Em biết tội của em nặng nề vô cùng, biết tu mầy kiếp cho vơi. Dẫu vậy, em cũng ráng hết sức, cầu nghuyện cho vợ con khỏi khổ lụy vì mình, là em mãn nghuyện lắm rồi.
- Chú chẳng nên quá bi quan như vậy: mình đã ăn năn sám hối tội cũ, lại biết lựa đường đạo đức mà đi, dẫu đường có dài, cứ bền bỉ mạnh dạn tiến lên, lo chi không có ngày tới đích.
Đồng thời mình cố tìm những việc phước đức mà làm, cán cân phước đức càng tăng thì tự nhiên tội nghiệp phải giảm.
Cậu chuyện tới đây vừa lúc đò máy chạy ngang chùa Đông Hậu. Pho tượng trắng muốt của Bồ Tát Quán Thế Âm như ẩn như hiện bên chòm tre xanh. Cả hai chúng tôi nhìn sững bóng dáng từ bi. Trong lúc Dũng lâm râm nhiệm cầu thì tối nghĩ đến hạnh nghuyện cao cả của Ngài mà bồi hồi xúc động.
(Sưu tầm theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí, tác giả Lam Điền)