Loading

NHÀ VÀ BỆNH

Phần 1:

Ý Nghĩa Và Nguyên Nhân Của Bệnh

Nhà khảo sát phong thủy không trực tiếp chẩn trị người bệnh nhưng cần biết khái lược bệnh trạng, bệnh lý để:

-Xác định cung hướng của những thành phần quan yếu như cửa cái, bếp, sơn chủ, phòng chủ.

-Sửa chữa ngôi nhà cho hợp cách khi trạch chủ yêu cầu.

Nhà ở sanh bệnh do khí lực của các cung hướng không hòa hợp, nay điều chỉnh cho thuận hợp giữa các khí lực, nhà khảo sát phong thủy cũng là thầy thuốc gián tiếp trị bệnh.

Bệnh có rất nhiều nguyên nhân, lời thế tục nói: “bệnh tùng khẩu nhập” (bệnh do đường miệng mà vào, tức là do sự ăn uống). Sách Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh tập 1 trang 258 viết: “Trăm bệnh đều phát sinh ở Tâm và đều bắt rễ ở Thân”. Y Tổ Lê Hữu Trác giải thích: “Tâm là chủ của toàn thân, là vật thể của Thần Minh, tác dụng của sự sáng suốt, tiếp ứng với sự vật, manh mối đều do Tâm gợi ra. Cho nên noojit thương, thất tình đều do tâm chịu đựng trước. Những ngũ tạng bị thương, cuối cùng cũng về đến Thận cả, vì Thận là cơ sở của chân Âm, chân Dương, là căn cứ của khí huyêt, là nguồn gốc của sinh mệnh, Thận là yếu tính của tất cả các bệnh”.

Chân Âm, chân Dương thuộc Tiên Thiên, vậy cần có khái niệm về sự cấu tạo nơi thân thể, Tiên Thiên lẫn Hậu Thiên, sau đó suy diễn mối tương quan giữa bệnh và nhà.

Khi kết thai, hình tượng của cái thai ở giữa rỗng, có một mầm thẳng như nhị sen. Cái mầm thẳng đó là cuống rún, nhị sen tức hai quả Thận, có một điểm nguyên dương đóng ở giữa làm nên mạng người. Điểm nguyên dương đó là Mệnh Môn, ở giữa hai thủy, thành một hào dương ở giữa hai hào âm, tượng của quẻ Khảm ở phương Bắc, sự cấu tạo nên Thận thủy như trên diễn đạt ý nghĩa câu: ”Thiên nhất sinh thủy” của số sinh và số thành trong Hà Đồ. Thủy sinh Mộc: Can, Mộc sinh Hỏa: Tâm, Hỏa sinh Thổ: Tỳ, Thổ sinh Kim: Phế.

Ngũ Tạng: Thận, Tâm, Can, Tỳ, Phế đã thành thì tiếp theo là Lục Phủ: Bàng Quang, Đởm, Tiểu Trường, Tam Tiêu, Vị, Đại Trường.

Từ Ngũ Tạng đến Lục Phủ thuộc cấu tạo của Hậu Thiên, chỉ có Mệnh Môn có trước thuộc Tiên Thiên nằm giữa hai quả Thận.

Bên trái Mệnh Môn có một huyệt gọi là chân Thủy, chân Âm. Bênh phải Mệnh Môn có một huyệt gọi là chân Hỏa, chân Dương, còn gọi là tướng Hỏa vì Mệnh Môn là Quân Hỏa, Quân Hỏa như ông Vua, tướng Hỏa như tôi thần, vua không trực tiếp hành sự chỉ ra lệnh, còn tôi thần thì có bổn phận thực thi.

Gọi là Mệnh Môn tức là cửa của sinh mệnh, vì khi mở khi đóng như cái cửa, là khí chân dương, nguyên dương nằm ở giữa hai khí âm (quẻ Khảm). Mệnh Môn khi yên tĩnh thì đóng kín, nên đủ sức nuôi ngầm nhất âm chân thủy bên trái, khi chuyển động thì mở toang nên đủ sức tác động đến nhất dương chân Hỏa bên phải. Tác dụng sinh hóa không bao giờ ngừng nghỉ của hai quả Thận là do tác động của một thứ khí chân Âm chân Dương, vì chân Thủy theo chân Hỏa châu lưu ngày đêm khắp Lục Phủ Ngũ Tạng, hễ ngưng trệ thì sinh bệnh, tắt ngưng thì chết.

Chân Âm, chân Dương này là thủy hỏa vô hình của Tiên Thiên, thứ khí huyền diệu nguyên sơ chứ không phải Thận thuộc Thủy vì do Phế kim sinh ra, Tâm thuộc Hỏa vì do Can mộc chuyển thành. Chân Thủy, chân Hỏa không phải là thứ Hỏa, Thủy hữu hình của Hậu Thiên mà khác nhau. Hỏa Hậu Thiên là hỏa của quẻ Ly ứng với Tâm bị thủy Hậu Thiên dập tắt ngay. Hỏa Tiên Thiên là nguyên khí thuần dương, cường kiện của quẻ Càn như Thoán Truyện viết: “Đại tài Càn nguyên, vạn vật tư thỉ, nãi thống thiên” (Lớn thay đức Nguyên của Càn, bao nhiêu sinh vật trong vũ trụ đều nhờ đức Nguyên ấy mà bắt đầu nẩy nở ra, đức Nguyên mới là thống quát hết thiên đạo).

Càn theo Tiên Thiên Bát Quái hướng Nam là hướng của Ly trong Hậu Thiên. Khảm theo Tiên Thiên Bát Quái hướng Tây nhưng ở Hậu Thiên lại là hướng Bắc. Nếu cất nhà theo trục Khảm – Ly (Bắc Nam) và ngược lại thì sẽ thịnh đại từ 40-90 năm. Đây là cách cục Diên Niên của Khảm- Ly là cách Diên Niên của Hậu Thiên, giá trị của nó hẳn là tương đối bởi hai thứ thủy Khảm và hỏa của Ly xung khắc nhau. Thủy của loại nhà này là thủy của Khảm và của Văn Khúc Tinh.

Không phải chỉ có Tâm hỏa mà cả năm Tạng đều có “Tướng Hỏa” là hỏa hữu hình, đều nhận khí ở Tam Tiêu: Tỳ, Vị, Can, Đởm: Thận đều có một hệ gắn liền với bên Tâm Bào để thông với Tâm, hỏa suy thì sanh bệnh.

Nay có bệnh ở Tim và các Kinh, Tạng Phủ liên hệ thì dễ sinh các chứng mất ngủ, đau nhói ở tim, bụng và sườn đầy tức, bả vai đau, cổ viêm đau, miệng khát khô, hạ sườn và eo lưng cùng đau rán, hồi hộp, vai cổ cứng, nhức đầu, đau mắt, bị nhãn tật, mục tật, miệng đắng (tâm nhiệt), nói lảm nhảm, cười vô cớ…cùng các chứng về áp huyết.

Dien Niên trạch với đại môn Ly (sơn chủ, phòng chủ thuộc Khảm) thì là nội khắc ngoại, Thận mệt hơn Tâm vì Khảm nội bận lo đối phó với Ly ngoại, với loại nhà này, tốt hơn là chuyển chính môn Ly thành tả thiên môn Tốn, đắc nhân đắc Sinh Khí. Diên Niên trạch vói đại môn Khảm (sơn chủ, phòng chủ Ly) ở lâu năm sẽ có những chứng trạng trên.

Diên Niên là thọ trường miễn viễn với thời gian, là đạt tới mức  “trăm năm trong cõi người ta” và để đạt được ý nghĩa ấy, có lẽ chỉ còn cách “thiểu dục, tri túc” (tiết chế dục vọng thì sẽ gặp sự đầy đủ) để bảo vệ chân hỏa và chân thủy Tiên Thiên.

Tiết dục, thiểu dục nhằm giảm bớt những ham muốn, ước vọng, chủ trương quả dục (ít dục) không chấp nhận đa dục (nhiều dục), chủ trương này trái với thực tế vì lòng ham muốn của con người không có bến bờ (nhân dục vô nhai). Tri túc (biết đủ) nhằm giảm thiểu nhu cầu vì mức cầu thì nhiều mà tài hóa, phương tiện thỏa mãn lại có hạn. Thiểu dục tri túc tạo nên sự “thường, lạc” vì cầu bất đắc (muốn mà không được) thì dễ khởi tâm tranh, tâm tranh giành là mầm loạn, loạn thì cùng khốn. Được thường lạc cũng là được Phước Đức (một tên khác của Diên Niên).

Chân Hỏa sung mãn nhờ khéo tàng dưỡng vì ít phát động, nhờ thiểu dục tri túc, chân thủy cũng sung túc, vì âm theo dương mà tăng trưởng, nguyên khí dồi dào thì phần Vinh, phần Vệ của cơ thể đầy đủ, ít bệnh, ít não phiền là nhờ đó, Diên Niên cũng nhờ đó. Ở nhà Diên Niên mà lòng dục được dung túng rộng rở, tham lam bất nhân bất nghĩa, hành động vô đạo thì hoặc thân sớm ra đồng nội, hoặc nhà sớm về tay người khác có phước đức hơn.

Phần 2:

Các Nhân Tố Phong Thủy Ngôi Gia Tác Động Đến Con Người Trong Gia Đình:

  1. Nhà có Mộc bị Kim khắc:

Nhà có hướng kim Càn (Tây Bắc), Đoài (Tây) và Mộc ứng với hai cung Chấn, Tốn. Đởm phủ dương thuộc Chấn, Can tạng âm thuộc Tốn. Hai cung  Càn, Đoài thuộc kim và hai sao Vũ Khúc, Phá Quân cũng thuộc kim. Kim khắc mộc, tức hai cung Càn, Đoài và hai sao Vũ, Phá khắc Can, Đởm. Y Tổ trong Hải Thượng Y Tông Tâm Linh tập II, trang 14 nói Can thuộc Chấn. Dược Sĩ Đỗ Đình Tuân trong Y Dịch trang 131 nói Gan tượng cho quẻ Tốn vì Gan và Tốn cùng thuộc Mộc, Gan hóa Phong mà Tốn là gió. Ở đây thì căn cứ vào can nguyên phủ thuộc dương, tạng thuộc âm.

Nhà có Sơn Chủ, phòng Chủ thuộc Tốn mộc bị cửa Càn, Đoài kim khắc mộc thì tạng Can sẽ bị hai, bệnh ở tajing Can thì đau ở hai bên sườn, đau ran đến bụng dưới. Gan hư thì lóa mắt nhìn không rõ, tai không nghe được gì, hay sợ, tưởng như có người sắp đến bắt mình và hay nói nhiều. Vì Can khí thực nên dễ sinh giận dữ, gân rút đau nhức do Can không chỗ nương tựa, bởi thủy kém nên mộc ráo (khô). Khi giận dữ, hỏa khí ở Can thúc đẩy long hỏa trong thân ra đốt cháy cả Tam Tiêu, bốc ra ngoài da thịt làm hao tổn khí huyết bất kể chỗ nào. Can hư không tàng được huyết , sinh mờ choáng. Can khí bị ráo quay lại lấn bức Tỳ, Vị khiến nằm không yên. Can nhiệt thì nghe miệng chua, ngoài ra còn có chứng sơ gan cổ trướng, phong ngứa, ghẻ lở, đau ở phần sinh dục, đàn bà kinh nguyệt không đều, tử cung bị trệ, bị bạch đái, bón, yếu liệt căn cơ, liệt dương.

Nhà có Sơn Chủ, phòng chủ Chấn mộc bị cửa Càn, Đoài hoặc hai sao Vũ, Phá khắc thì dễ sinh bệnh về mặt Đởm, Đởm chủ quyết đoán, dễ sinh nóng nảy, tức giận.

Đởm bị bệnh làm đầu, ngực và sườn căng đau, miệng đắng, nôn mửa. Giận quá mà không phát tiết được thì bị uất kết, dễ sinh bệnh sỏi mật, phát phần xung thiên sinh cuồng tâm loạn trí. Đởm có bệnh thì hay thở dài, ngoài ra còn có các chứng miệng méo, lệch mắt, chân gối đau tê, phong thấp, bán thân bất toại, viêm mật, bứt rứt, đứng ngồi không yên, mất ngủ, xuất tinh, huyết trắng, ớn lạnh…

  • Nhà Có Thổ bị Mộc Khắc:

Trường hợp nhà mở cửa thuộc Mộc hướng Đông (Chấn) hay Đông Nam (Tốn) thì Thổ tượng ứng với hai cung Cấn và Khôn. Vị phủ dương thuộc Cấn, Tỳ tạng thuộc âm nên là Khôn. Cấn, Khôn bị cửa Mộc khắc tức bị hai cung Chấn, Tốn và hai sao Tham Lang, Phụ Bật mộc khắc. Y Tổ nói: “Tỳ, Vị là cha mẹ của khí huyết”.

Nhà có bếp, Sơn Chủ, Phòng Chủ tại cung Cấn mà cửa cái tại Chấn, Tốn thì Vị (bao tử) bị tổn thương. Vị bị hại, gây ra các bệnh: tiêu hóa yếu, ăn không tiêu, ói mửa, dạ dày viêm và đau quặn, lở loét hoặc xuất huyết bao tử.

Vị là bể chứa của thủy cốc, nguồn lớn của Lục Phủ, Vị nhiệt nghe miệng lạt. Vị hư hàn thì ợ chua, Vị mạnh thì Thận đầy đủ, tinh khí sung mãn. Vị bại làm tinh khí kém, sự giao hợp yếu. Vị lạnh quá thì sinh nôn ọe. Trái lại nếu Vị nóng quá làm tổn hại Thận vì hỏa mạnh làm thổ vượng, thổ vượng thì trấn áp Thận thủy. Thận bị tổn sinh tính hay sợ sệt.

Nhà có bếp, Sơn Chủ, Phòng Chủ Khôn (Tây Nam)  cửa cái tại cung Chấn (Đông), Tốn (Đông Nam) thì hại Tỳ. Tỳ (tạng, lá lách) là then chốt của nguồn sinh hóa, gốc của phân Vinh, thông suất phân huyết.

Tỳ nhiệt (nóng) thì nghe miệng ngọt, Tỳ khí hư tổn thì nghe ngực trương đầy. Tỳ không vận hóa được sinh nhiều đờm, hay mửa đờm về sáng, chân tay tê, miệng lở. Tỳ suy kém làm ăn uống không ngon, bắp thịt teo dần. Tỳ hư sinh ăn nhiều, hay đói, hay nuốt (khơi khơi), sôi bụng, suy dinh dưỡng. Tỳ sinh huyết, huyết hư thì bị mờ choáng. Tỳ hư hại nặng nề thì bụng trướng sau khi thổ tả.

  • Nhà Có Kim Bị Hỏa Khắc:

Nhà có cửa hướng Ly (nam, hỏa). Càn (Tây Bắc) thuộc dương kim ứng với Đại Trường (ruột già). Đoài (Tây) âm kim ứng với Phế (phổi). Kim kị hỏa, tức bị Ly hỏa hay Liêm Trinh hóa của bếp hay của cửa cái khắc thì Đại Trường bị tổn thương. Đại Trường bị bệnh khiến sự bài tiết các chất cặn bã do tiểu trường đưa xuống gặp chứng ngại như táo bón, chảy lỏng, đau bụng, sôi bụng, kiết lị, ung thư trực tràng và những bệnh có thể xảy ra trên đường kinh Thủ Dương Minh Đại Trường đi qua. Đau răng hàm, vai và tay tê mỏi, nghẹt mũi, chảy nước mắt, nước mũi, cổ sưng, bán thân bất toại.

Nhà có Sơn Chủ, phòng Chủ Đoài bị Ly hỏa hay sao Liêm Trinh hỏa của bếp hoặc của cửa cái khắc, trong nhà có người bị tổn hại về Phế, Phế kim chủ về khí, khai khiếu ở mũi bị hỏa khắc thì Phế khí tổn thương nên mũi hay nghẹt. Phế chủ bì mao, khi bì mao bị phong hàn xâm nhập làm Phế khí tổn thương ở trong khiến mũi nghẹt đột ngột. Phế bị nóng (nhiệt) thì nghe miệng cay, còn có các chứng khác liên quan đến Phế: nấc cụt, viêm họng, sưng khí quản, ho suyễn, ho lao, thũng nửa người bên phải, tức trướng ở ngực.

Dược sĩ Đỗ Đình Tuân trong sách đã dẫn nói Càn thuộc Phế, Đoài ứng với Đại Trường. Thức thế có thấy nhà Sơn Chủ, phòng Chủ Đoài đều có người đau ruột già, có người đau phổi ấy là do quan hệ biểu lý giữa phổi và ruột già chăng? Lại nữa không cứ gì Sơn Chủ, Phòng Chủ Càn, Đoài mới có người đau phổi. Đại môn Càn, sơn chủ Tốn, bếp Chấn cũng làm ông chủ nhà ấy đau phổi trầm trọng, triền miên. Cửa Càn ứng với ông chủ nhà, bếp Chấn Ngũ Quỷ Liêm Trinh hỏa khắc chăng?

  • Nhà Có Thủy Bị Thổ Khắc:

Thổ môn có hai cung Cấn (Đông Bắc), Khôn (Tây Nam) làm cửa chính ứng với hai sao đồng hành là Cự Môn và Lộc Tồn. Nhà có Sơn Chủ, Phòng Chủ Khảm bị khắc bởi cửa cái Khôn, bếp Cấn hoặc hai sao Cự Môn, Lộc Tồn thì Thận thủy bị tổn hại.

Thận là Tổ của khí Tiên Thiên, là nguồn sinh hóa của ngũ tạng. Thận thủy suy làm Can mất chỗ tự dưỡng nên sinh ra huyết táo. Thận hư thì thủy không trở về nguồn được, sinh ra đờm ở Tỳ, Thận thủy thiếu khiến Tâm, Thận bất giao làm thần sắc suy bại, lại rút hao Phế khí nên làm ho hen. Thận hư khí không về được khiến hay ngáp, hay rên. Không nói được là do bệnh ở Phế và Thận, vì Phế đưa khí ra, Thận nạp khí vào, khí yếu nên không thể nói Thận hư làm tân dịch kiệt, sinh ra đại tiện táo. Thận nhiệt nghe miệng mặn, Thận hư bại còn sinh các chứng hay quên, tiểu nhiều về đêm, lạnh chân, xuất tinh, huyết trắng, tinh loãng, phù thủng.

Chứng trạng của bệnh rất nhiều, không sao kể hết, vì bệnh biến chứng nếu không Thầy, không thuốc hay có thể không còn đủ sức chống cự, bệnh truyền lan qua hai cách thuận theo vòng sinh của ngũ hành: Can mộc qua Tâm hỏa và nghịch theo vòng khắc của ngũ hành: Can mộc qua Tỳ, Vị thổ…các chứng trạng nêu trên chỉ tượng trưng mà thôi.

Nhìn chung, nhà đem lại bệnh hoạn cho người, hầu hết do thừa hung du niên giữa ba thành phần quan yếu: Sơn Chủ – Phòng Chủ, Cửa Cái và Bếp.

(Lộc Dã Phu/ Dương Cơ Chứng Giải)  

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo